BI TIU LUN Mn Bnh truyn nhim Tn
BÀI TIỂU LUẬN Môn: Bệnh truyền nhiễm Tên chuyên đề: Bệnh cúm gia cầm và biện pháp phòng trị Giáo viên hướng dẫn : TS. Nguyễn Văn Quang Học viên : Nguyễn Thị Mai Trang Chu Bá Trung
Giới thiệu chung về bệnh cúm gia cầm Bệnh cúm ở gia cầm (Avian Influenza) thường gọi là bệnh cúm gia cầm hoặc bệnh cúm gà, là một bệnh truyền nhiễm gây ra bởi vi rút cúm typ A thuộc họ Orthomyxoviridae. Bệnh thường xảy ra nặng ở gà, vịt, lợn, một số động vật có vú khác và có thể lây sang người. Biểu hiện của bệnh chủ yếu ở đường tiêu hoá và đường hô hấp.
Trước đây, bệnh này còn được gọi là bệnh dịch tả gà (fowl plague) nhưng từ Hội nghị quốc tế lần thứ nhất về bệnh cúm gia cầm tại Beltsville, Mỹ năm 1981 đã thay thế tên này bằng tên Bệnh cúm truyền nhiễm cao ở gia cầm (HPAI – Highly Pathogennic Avian Influenza). Bệnh cúm gia cầm thể độc lực cao (HPAI) là một bệnh truyền nhiễm nguy hiểm, có tốc độ lây lan rất nhanh, với tỷ lệ chết cao trong đàn gia cầm nhiễm bệnh.
Lịch sử bệnh Bệnh xảy ra lần đầu tiên ở ý năm 1878 Bệnh cúm gà xảy ra nhanh, lây lan mạnh xong đa số trường hợp bệnh không có biểu hiện lâm sàng rõ rệt nên rất khó chẩn đoán. Bệnh gây thiệt hại kinh tế rất lớn bởi chúng gây chết rất cao, giảm sản lượng trứng, thịt, tăng chi phí thức ăn, các chi phí khác trong việc kiểm soát giết mổ và ngăn chặn dịch.
Nguyên nhân gây bệnh Mầm bệnh do một loại virus có tên Avian influenza virus, thuộc họ Orthomyxoviridae, giống Influenza virus type A, thuộc nhóm ARN, có vỏ bọc bằng lipid. Trên vỏ bọc có hai loại kháng nguyên bề mặt là kháng nguyên H và kháng nguyên N. Kháng nguyên H có 16 subtype đánh số thứ tự từ H 1 đến H 16 và kháng nguyên N có 9 subtype được đánh số thứ tự từ N 1 đến N 9.
Tuỳ theo chủng virus gây bệnh, ký hiệu của subtype H và N được chỉ định cho chủng virus đó. Thí dụ chủng H 5 N 2 gây dịch cúm gà tại Hồng Kông năm 1997, H 7 N 7 gây dịch cúm gà ở Hà Lan năm 2003. Ở Việt Nam hiện nay đã xác định chủng gây bệnh là H 5 N 1
Cách truyền lây Thời gian ủ bệnh ngắn chỉ vài giờ đến vài ngày. Lây bệnh chủ yếu qua đường hô hấp, tiếp xúc trực tiếp, hoặc lây bệnh từ nguồn thức ăn, nước uống…. Bệnh không truyền dọc từ gia cầm mẹ qua phôi trứng và sang con
Đặc điểm dịch tễ học Gà ở mọi lứa tuổi đều có khả năng nhiễm bệnh cúm. Sau khi virus xâm nhập vào cơ thể gà nó phát triển và đào thải ra ngoài qua phân, nước mũi và miệng. Nó tồn tại khá lâu trong phân gà từ 30 35 ngày ở 40 o. C và 7 ngày ở 200 o. C. Trong thức ăn, nước uống virus tồn tại hàng tuần. Đây là nguồn bệnh nguy hiểm. Gà lây nhiễm tự nhiên qua đường tiếp xúc trực tiếp: ăn phải thức ăn, nước uống bị ô nhiễm.
Bệnh lây nhiễm nhân tạo bằng đường truyền qua não gây bệnh cho động vật có vú, chuột bạch, chuột cống, chó, mèo, vượn. . . Đặc điểm dịch tễ rất giống bệnh Niucatxơn Một số điểm khác biệt sau: + Lây lan chậm hơn vì virus dễ bị tiêu diệt ở môi tr ờng axít, khó lây lan qua đường tiêu hoá, hô hấp, dễ bị tiêu diệt bởi tác động ngoại cảnh. + Bệnh xẩy ra theo mùa vụ.
Triệu trứng bệnh Bệnh có 2 thể: Thể bệnh nhẹ (LPAI) gia cầm thuỷ cầm chỉ xuất hiện triệu chứng xù lông, giảm ăn uống, giảm sản lượng trứng. Thể bệnh nặng (HPAI) có tốc độ lây lan rất nhanh. Ở nước ta đã xác định chủng virus gây bệnh là H 5 N 1. Chủng này thường gây thể bệnh rất nặng trên gia cầm, các triệu chứng xuất hiện thường tập trung trên đường hô hấp, mắt, hệ tim mạch và thần kinh do virus xâm nhập và tấn công gây tổn thương nặng các hệ thống kể trên.
Triệu trứng lâm sàng Thời gian nung bệnh từ 1 2 ngày (ít khi 3 5 ngày) Thể trên cấp tính (hay gặp) xảy ra từ vài giờ đến 24 giờ. Thể cấp tính là 1 4 ngày, thể này thường hay gặp. Thể d ới cấp tính (ít gặp) là 7 ngày. Biểu hiện triệu chứng lâm sàng phụ thuộc rất nhiều yếu tố như: độc lực, số lượng virus, tuổi gà, giới tính và các yếu tố môi trường khác. Nhiều trường hợp gà bị dịch cúm nhưng không có dấu hiệu lâm sàng, song có nhiều trường hợp dịch nổ ra dữ dội với các triệu chứng điển hình về đường hô hấp, tiêu hoá và thần kinh.
Biểu hiện hô hấp: thở dốc, lắc đầu, chảy nước mũi, nước mắt Mí mắt viêm sưng, mặt phù nề và đầu sưng to. Triệu chứng tiêu hoá: bỏ ăn, ỉa phân loãng mầu xanh trắng, lây lan nhanh, năng suất trứng giảm. Triệu chứng thần kinh: Gà đi lại không bình thường, chuyệch choạng, run rẩy, mệt mỏi, nằm li bì hoặc tụm lại với nhau.
Bệnh tích đại thể Phù nề dạng keo nhầy ở tế bào kết mạc dưới da. Viêm mũi từ thể cata đến mủ và bị casein hoá gây tịt mũi, thối mí mắt. Chất nhầy có lẫn máu xoang kết mạc và viêm phúc mạc từ cata đến fibrin và nhiều khi trứng non bị vỡ gây viêm dính các cơ quan nội tạng.
Buồng trứng bị viêm xuất huyết, trứng non dập vỡ, viêm ống dẫn trứng. Túi khí dày lên và có nhiều fibrin bám dính. Dạ dầy tuyến: xuất huyết điểm cụm lại từng đám tròn ở đầu vào và đầu ra, nhưng không bị hoại tử hình cúc áo ở dạ dầy tuyến và ruột như ở Niucatxơn
Một số hình ảnh minh họa Gà trong ổ dịch Mổ khám tại ổ dịch Đầu sưng, mặt phù, mí mắt sưng, mào tích tím tái
Miệng, mũi, hậu môn chảy nhiều dịch nhớt
Xuất huyết dưới da chân Xuất huyết mỡ nội tạng, khí quản xuất huyết
Xuất huyết các cơ quan nội tạng
Vịt mắc bệnh, chảy nước mắt nước mũi
Thành phần hóa học của vi rút ARN của vi rút cúm chiếm 0, 8 – 1, 1%; Protein (chủ yếu là glycoprotein): 70 75%; lipid (lipid tập trung ở màng vi rút): 20 24% và 5 8% hydrocacbon.
Sức đề kháng của vi rút Vi rút cúm gia cầm tương đối nhạy cảm với các tác nhân vật lý, hoá học dễ dàng bị tiêu diệt ở nhiệt độ cao, ở 56 60 o. C chỉ trong vòng vài phút là vi rút đã mất độc tính. Điểm đẳng điện của vi rút tương ứng với p. H = 5, 3; ở khu vực axit, độc tính của vi rút giảm nhanh hơn khu vực kiềm.
Cấu trúc vi rút cúm gia cầm
Hình thái virus cúm gia cầm
Hình thái virus cúm gia cầm
Ở nhiệt độ thấp, vi rút vẫn có thể tồn tại trong phân ít nhất là 3 tháng. Trong nước, vi rút có thể sống tới 4 ngày ở nhiệt độ 30 o. C và trên 30 ngày ở nhiệt độ 0 o. C, vô hạn định ở nơi nguyên liệu bị đông lạnh. Trong phủ tạng gia cầm, vi rút tồn tại từ 24 – 39 ngày, ánh sáng chiếu trực tiếp vi rút sống được 40 giờ còn chiếu bình thường thì sống được 15 ngày.
Phòng bệnh Cúm gia cầm mang tính chất quốc gia được OEI, WHO khuyến cáo bao gốm 2 phương pháp; Phòng bệnh bằng an toàn sinh hoc. Phòng bằng tiêm vắc xin
Phòng bệnh bằng cách tiêm vắc xin Ở VN đang áp dụng tiêm phòng đại trà vắc xin vô hoạt H 5 N 1 và H 5 N 2 có nguồn gốc từ TQ và H. Lan. Tiêm lần đầu cho gia cầm vào 14 ngày tuổi và 30 ngày tuổi. Sau đó tiêm nhắc lại lần 2.
Điều trị Bệnh cúm gia cầm không điều trị mà tiêu hủy tận gốc. Tuy nhiên bện Cúm gia cầm không phải lúc nào cũng do H 5 N 1 gây nên. Do đó Beard. G. O, Wester. C. V (1970) đã dùng Admatidin và Rimantadin để điều trị và đã cứu được 50 60% gà bệnh ( thành phần cơ bản của 2 loại thuốc trên là Taminflu). Hiện nay dùng Taminflu điều trị Cúm thể HPAI trên toàn thế giới.
- Slides: 30